Chuyên mục: Văn mẫu: Nhớ đồng (Tố Hữu)

Đề bài: Phân tích bài thơ "Nhớ đồng" của Tố Hữu.

Bài văn mẫu 1

    Tố Hữu hoạt động trong phong trào học sinh ở Huế, bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế 1939). Vào tù, Tố Hữu sáng tác nhiều bài thơ diễn tả tâm tình của một nhà cách mạng trẻ tuổi, sau này được tập hợp trong phần "Xiềng xích" của tập thơ "Từ ấy". Bài thơ "Nhớ đồng", là những dòng tâm tư nồng nhiệt, tha thiết, trong trẻo của nhà thơ trẻ hướng về ruộng đồng, quê hương, về những con người thân yêu, về những kỉ niệm của một thời hoạt động cách mạng sôi nổi.

    Bài thơ có lời đề "tặng Vịnh" (Nguyễn Chí Thanh) một người bạn đồng hương, cùng hoạt động cách mạng và cùng bị tù trong nhà giam Thừa Phủ. Có lẽ bài thơ được gợi hứng trực tiếp từ giọng hò của Vịnh trong những trưa tù cô quạnh:

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!".

    Giọng hò của người bạn tù đã gợi lên hình ảnh đồng quê, thức dậy trong lòng nhà thơ tình yêu quê hương, xóm làng:

    "Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

    Đâu ruồng tre mái thỏ yên vui

    Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

    Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?"

    Điệp từ "đâu" tạo ra nhạc điệu tha thiết, diễn tá niềm thương nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ trẻ. Các giác quan của thi sĩ được thức dậy với đồng quê. Hương vị đậm đà của gió, của đất, và tài hoa của Tố Hữu là chỉ một từ (cồn) gợi lên hình ảnh của xứ Huế "Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi". Tác giả cũng tinh tế trong cảm nhận, nghe được hơi thở của "ruồng tre mát", nhìn thấy từng ô mạ xanh mơn mởn, thấm được vị của "những nương khoai ngọt sắn bùi".

    Trong nỗi nhớ đồng quê của nhà thơ chẳng những có tình cảm nồng nhiệt mà còn có tư tưởng, đây là nét mới so với các nhà thơ lãng mạn đương thời:

    "Đâu những đường con bước vạn đời

    Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

    Giữa dòng ngày tháng âm u đó

    Không đổi, nhưng mà trồi cứ trôi..."

    Những "con đường" thân thuộc mà cũng chật chội quá, những xóm nhà tranh thương quá, sao mà nghèo! Một đồng quê tù đọng, "âm u", "không đổi"! Nhìn ra sự bất biến của đồng quê, mà cũng là của xã hội đương thời, đã chớm nở tư tưởng muốn thay đổi, cách mạng!

    Sự "cựa quậy" về tư tưởng ấy dã làm xê động cả điệp khúc của bài thơ. Từ:

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò".

    "Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

    Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!".

    Nhưng nhà thơ không tắt niềm tin tưởng vào cuộc sống. Nhà thơ gửi gắm niềm hi vọng vào những con người "lưng cong xuống luống cày", những bàn tay gieo hạt"tung trời những sớm mai":

    "Đâu những lưng cong xuống luống cày

    Mà bùn hi vọng nức hương ngây ,

    Và đâu hết những bàn tay ấy

    Vãi giống tung trời những sớm mai?".

    Những hình ảnh khoa trương gợi nhớ bài thơ "Mùa gieo hạt, buổi chiều" của Huy-gô:

    "... Bóng đêm đầm mặt ruộng.

    Tơi tả áo quần dây

    Cụ già vung nắm giống

    Mùa sau xuống luống cày

    Dáng người cao đen sẫm

    Vời vợi trên đồng sâu

    Hẳn lòng người tin lắm

    Tháng ngày kia đến đâu..."

    Hay là:

    "Trong màn đêm lan rộng

    Nghe lẫn tiếng rì rào

    Cánh tay người gieo giống

    Như vươn tới trời sao..."

    (Tố Hữu dịch)

    Nổi bật lên trong nỗi "Nhớ đồng" là hình ảnh của những con người thân quen, ruột rà, mới gần gũi đây mà đã xa xôi, cách biệt:

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

    Đâu bóng hình quen đâu cả rồi

    Sao mà cách biệt quá xa xôi".

    Những con người đồng quê mà nhà thơ đã thân quen "tự thuở xưa", và đã hiểu được bản chất, tâm tư, tình cảm cuộc sống trong những con người "dãi gió dầm mưa" đó:

    "Những hồn chất phác hiền như đất

    Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!".

    Và sâu thầm trong tâm hồn nhà thơ là nỗi nhớ mẹ già... Nỗi nhớ da diết dâng trào lên trong âm điệu trùng điệp đến nao lòng:

    "Chao ôi, thương nhớ, chao thương nhớ

    Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!".

    Rồi nhà thơ nhớ lại chính mình. Người thanh niên trong tù ngục, kiếm tìm lại những hình ảnh của người thanh niên "ngày xưa":

    "Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi

    Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời".

    Kỉ niệm không bao giờ phai nhoà trong tâm trí nhà cách mạng trẻ tuổi là những giây phút bắt gặp lí tưởng:

    "Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

    Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

    Say đồng hương nắng vui ca hát

    Trên chín tầng cao bát ngát trời...".

    Tác giả hồi tưởng lại một cách hết sức xúc động bằng hình ảnh so sánh thích hợp (nhẹ nhàng như con chim cà lơi), bằng lối khoa trương hồn nhiên (trên chín tầng cao bát ngát trời). Với cánh chim tự do, say sưa với hương đồng gió nội, "vui ca hát" trên không gian của đồng quê cao rộng, nhà thơ vừa hồi tưởng lại kỉ niệm đẹp đẽ của giây phút bắt gặp chân lí cách mạng, vừa diễn tả nỗi thèm khát của cánh chim tự do, nay bị nhốt trong lồng:

    "Tôi thu tất cả trong thầm lặng

    Như cánh chim buồn nhớ gió mây".

    Bài thơ "Nhớ đồng" đã biểu hiện một cách chân thành và sinh động tâm tư của một nhà cách mạng trẻ tuổi bị lâm vào cảnh tù ngục. Nỗi khao khát cuộc sống tự do, tình cảm thương nhớ đồng quê, thương nhớ những người thân yêu... được biểu hiện bằng những hình ảnh, âm thanh sống động, trong trẻo.

    Chỉ tiếc là bài thơ nhiều lời; thơ là hình thức kết tinh nên càng cô đúc, kiệm lời thì thơ hay mới càng hay.

Bài văn mẫu 2

    Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Năm mười sáu tuổi, ông được giác ngộ cách mạng và gia nhập Đoàn thanh niên Cộng sản. Năm mười tám tuổi, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tố Hữu đã chứng kiến, tham dự và đóng góp vào quá trình lâu dài ấy với tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất. Ông xứng đáng là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.

    Từ ấy (1937 – 1946) là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu, đánh dấu thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời nhà thơ: được giác ngộ lí tưởng cộng sản và dứt khoát chọn cho mình con đường đi duy nhất đúng là con đường cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì "tội" tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.

    Nếu như bài Tâm tư trong tù được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống bên ngoài, bài Khi con tu hú được hình thành từ tiếng chim tu Hú báo hiệu hè về thì ở bài Nhớ đồng, cảm hứng thơ lại được gợi lên từ tiếng hò quen thuộc của quê hương làm xao động tâm hồn thi sĩ.

    Tố Hữu là người con của xứ Huế. Từ nhỏ, tâm hồn nhà thơ đã được nuôi dưỡng bằng mạch nguồn trong trẻo, ngọt ngào của những điệu ca, điệu hò nổi tiếng như Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy… Vì thế mà tiếng hò có rất nhiều ý nghĩa đối với người tù trẻ tuổi mang trái tim thi sĩ. Giọng hò đã khơi dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trên quê hương yêu dấu.

    Bài thơ Nhớ đồng phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đổng bào, đồng chí thân thương. Ở Tâm tư trong tù, tâm trạng ấy được thể hiện một cách sôi nổi, mạnh mẽ ; còn ở Nhớ đồng thì lại thâm trầm, da diết. Nhớ đồng là cách nói để cụ thể hóa đối tượng của nỗi nhớ. Tuy trong nỗi nhớ có hiện lên những hình ảnh quen thuộc của đồng ruộng, xóm làng, nhưng mở rộng ra đó chính là nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.

    Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn. Ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ được thể hiện sau câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.

    Nỗi nhớ trải dài suốt bài thơ được tác giả thể hiện bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trước hết, những câu hỏi tu từ được sử dụng làm điệp khúc: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Đây là những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới đã thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc.

    Câu thơ mở đầu mỗi khổ thơ được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh mức độ mãnh liệt của nỗi nhớ thương. Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam. Từ nghi vấn Gì kết hợp với tính từ sâu khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Tác nhân gợi nhớ là tiếng hò quen thuộc của quê hương xứ Huế; giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Đó là những âm thanh của đời thường luôn luôn vang vọng trong kí ức nhà thơ.

    Những ngày bị giam hãm trong tù, tâm hồn nhà thơ luôn hướng ra cuộc sống bên ngoài với tất cả nỗi nhớ thương và tình yêu mến. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trong tâm tưởng nhà thơ. Nhiều nhất là hình ảnh của mảnh đất cắt rốn chôn nhau cùng với những người dân quê lao động lam lũ, vất vả trên đồng ruộng:

    Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

    Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

    Đâu ruộng tre mát thở yên vui

    Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

    Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

    Đâu những đường con bước vạn đời

    Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

    Giữa dòng ngày tháng âm u đó

    Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…

    Đây là bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu An Cựu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang lững lờ trôi. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp xiết bao! Vậy mà giờ đây, quê hương thân yêu chỉ cách có bức tường nhà lao mà sao xa vời vợi ?! Những câu hỏi đầy trăn trở cứ lặp đi lặp lại phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:

    Đâu gió cồn thơm…, Đâu ruộng tre mát…, Đâu từng ô mạ…, Đâu những nương khoai…, Đâu những đường con…, Đâu nhà tranh thấp… ? Tất cả những gì gần gũi, thân quen của đời sống đều được Tố Hữu trân trọng miêu tả trong thơ. Tác giả cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời thường nhưng xiết bao gợi cảm đối với bản thân trong chốn lao tù. Giờ đây, nhà thơ chi có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy khung cảnh quê hương trong tưởng tượng bằng trái tim chất chứa nhớ thương.

    Giọng điệu thơ da diết, thổn thức thể hiện nỗi nhớ khôn cùng đang cuộn xoáy, trào dâng trong lòng thi sĩ. cảm xúc dâng trào thốt lên thành lời thơ chân thành, xúc động:

    Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,

    Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

    Những người nông dân hiền như đất, quanh năm dãi nắng dầm sương, vất vả sớm trưa được nhà thơ nhắc đến với tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những hình dáng thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:

    Đâu những lưng cong xuống luống cày

    Mà bùn hi vọng nức hương ngây

    Và đâu hết những bàn tay ấy

    Vãi giống tung trời những sớm mai ?

    Đâu những chiều sương phủ bãi đồng

    Lúa mềm xao xác ở ven sông

    Vẳng lên trong tiếng xe lúa nước

    Một giọng hò đưa hớ não nùng.

    Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất cũng từ từ hiện lên trong dòng hồi ức khiến nỗi nhớ càng thêm da diết và trái tim thổn thức vô hạn, vô hồi:

    Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

    Sao mà cách biệt, quá xa xôi

    Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

    Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

    Đâu những hồn thân tự thuở xưa

    Những hồn quen dãi gió dầm mưa

    Những hồn chất phác hiền như đất

    Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!

    Điệp từ nghi vấn Đâu đặt ở đầu câu cùng với một loạt từ cảm thán đã diễn tả một cách tự nhiên và chân thực tình cảm gắn bó máu thịt của nhà thơ đối với cuộc sống và con người quê hương. Dường như người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này.

    Sau nỗi nhớ đồng không thể nguôi ngoai, nhà thơ nhớ về những ngày đầu tiên được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Mạch cảm xúc phát triển rất đúng với lôgíc tâm lí. Hai giai đoạn trong chặng đường tìm kiếm chân lí đã được nhà thơ khái quát trong hai khổ thơ:

    Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi

    Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

    Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

    Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời.

    Đó là những ngày người thanh niên học sinh yêu nước đang băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi Mặt trời chân lí chói qua tim. Nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với bao nhiêu hi vọng, lạc quan, tin tưởng là để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ như chợt bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động. Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn:

    Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

    Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

    Say đồng hương nắng vui ca hát

    Trên chín tầng cao bát ngát trời…

    Mạch cảm xúc trong bài thơ được triển khai từ nỗi nhớ đồng, nhớ những bóng hình quen thuộc của quê hương, gia đình, nhớ mẹ già, nhớ những người đã khuất, nhớ những ngày đã qua và cuối cùng được cô đúc lại trong từ tất cả có ý nghĩa khái quát:

    Cho tới chừ đây, tới chừ đây

    Tôi mơ qua cửa khám bao ngày

    Tôi thu tất cả trong thầm lặng

    Như cánh chim buồn nhớ gió mây.

    Hình ảnh so sánh : Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện tài tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày.

    Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu thơ đầu, tạo nên kết cấu vòng tròn. Bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng như nhiều vòng sóng đồng tâm, mỗi lúc một lan xa, tỏa rộng không giới hạn;

    Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

    Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

    Bài thơ Nhớ đồng đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng và tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Đó cũng là động lực thúc đẩy người chiến sĩ – thi sĩ dấn thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương đất nước