Đề bài: Phân tích bài thơ “Hầu trời” của Tản Đà

Bài văn mẫu 1

   “Tản Đà con người của hai thế kỉ”. Cả cuộc đời, lối sống và sự nghiệp văn chương của ông đều mang dấu ấn hai thời đại: trung đại-hiện đại. Ông sinh ra trong một gia đình quan lại phong kiến, giữa buổi Đông Tây giao thời Hán học suy tàn, Tây học cũng mới bắt đầu nên thi sĩ không theo nghiệp thi thố làm quan mà mưu sinh bằng nghề sáng tác thơ ca, viết báo, làm văn. Thơ văn của ông có thể xem là dấu gạch nối giữa hai thời đại. Trong đó đặc sắc nhất là bài thơ “Hầu trời” thể hiện cái tôi cá nhân phóng túng, tự do tự khẳng định mình bằng cảm hứng lãng mạn nhưng không thoát li khỏi hiện thực xã hội. Không giống như các nhà thơ trung đại sử dụng thể thơ cũ như: Thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát hay song thất lục bát thi sĩ sử dụng thể thất ngôn trường thiên tự do không bị ràng buộc bởi bất cứ kết cấu nào nên mạch cảm xúc được bộc lộ rất thoải mái, xuyên suốt trong toàn bài.

   Mở đầu tác phẩm thi sĩ vào chuyện độc đáo và rất có duyên bằng bốn câu thơ:

    “Đêm qua chẳng biết có hay không

    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng

    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

    Thật được lên tiên-sướng lạ lùng.

   Tác giả là chủ thể của câu chuyện nhưng lại không biết “có hay không”, lại càng khiến cho người đọc hoang mang bởi hai từ phủ định “chẳng”, “không” tạo mối nghi vấn, gợi trí tò mò, bán tính bán nghi nhưng thi sĩ lại khẳng định ngay là câu chuyện có thật bằng bốn từ “thật” được lặp đi lặp lại để củng cố lòng tin độc giả vào sự việc mà nhà thơ sắp kể tạo sự hấp dẫn về việc “Thật được lên tiên-sướng lạ lùng”. Đúng như lời bình của Xuân Diệu “Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau hoàn toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”.

   Tiếp đến nhà thơ trình bày lí do, thời gian, không gian mà mình được “lên tiên” là do nguyên lúc canh ba nằm không ngủ được nên dậy uống nước ngâm văn vẫn chưa thể chợp mắt nên ra ngoài “chơi trăng”. Bỗng có hai nàng tiên xuống nói rằng:

    “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga

    ...Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

   Đó chính là lí do vì sao thi sĩ được ngâm thơ ở chốn “thiên môn đế khuyết”. Với tất cả cảm hứng, tài năng thi nhân Tản Đà đã ngâm thơ cho Trời và các chư tiên nghe với sự đắc ý và cao hứng đến tột bậc. “Đọc hết văn vần sang văn xuôi

    Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”

   Thi sĩ đã đưa người đọc đi vào câu chuyện của mình một cách thật tự nhiên để cùng ông trải qua phút giây “sướng lạ lùng” khi được hầu trời bằng văn chương.

   Văn thơ của Tàn Đà được Trời khen “Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay” và được các chư tiên nghe xúc động tán dương “Tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi”, “chau đôi mày”, “lắng tai nghe”, “Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay”. Nhà thơ tự do, thoải mái khẳng định tài năng và cái tôi cá nhân khi liệt kê các tập văn thơ như: văn lí thuyết “Khối tình”, văn chơi “khối tình con”, văn tiểu thuyết “Thần tiên”, “giấc mộng”, văn vị đời “Đài gương”, “lên sáu” và cuối cùng là quyển “Lên tám”. Văn chương của thi sĩ được trời khen “Văn đã giàu thay lại lắm lối”, “văn thật tuyệt”, “văn trần được thế chắc có ít”, còn các chư tiên ao ước tranh nhau dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”. Qua lời khen ngợi của Trời và các chư tiên dành cho thi sĩ người đọc thấy được tài năng văn chương hiếm có của Tản Đà khiến cho chốn thần tiên cũng phải bùi ngùi xúc động, tấm tắc khen văn hay chữ tốt.

   Thi sĩ khi nghe trời hỏi tên họ, quê quán ông không ngần ngại xưng danh tính:

    “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

    Quê ở Á Châu về Địa cầu

    Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”

   Trong thơ ca trung đại với đặc trưng cái tôi cá nhân bị lu mờ nhưng cũng có không ít trường hợp tự tin, không ngần ngại xưng danh như Hồ Xuân Hương “Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi” hay Nguyễn Công Trứ với câu thơ “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Tuy nhiên cách nói của Tản Đà đặc biệt hơn các nhà thơ trước. Ông công khai lí lịch rõ ràng và rất hiện đại có đầy đủ họ tên, quê quán, quốc tịch, châu lục, hành tinh…Dù chỉ qua đôi nét lời kể của Tản Đà nhưng ta có thể thấy được con người tài năng và phẩm chất đáng quý của ông. Thi sĩ ý thức tài năng văn chương bản thân và tự tin bộc lộ bản ngã cá nhân không chút ngần ngại không những vậy ta còn thấy được tấm lòng yêu nước sâu sắc của bậc trí thức kiêu hãnh công khai mình ở “Sông Đà núi Tản nước Nam Việt” trong hoàn cảnh chủ quyền đất nước bị xâm lăng, nền độc lập dân tộc bị đe dọa. Chính điều đó khẳng định tinh thần tự tôn dân tộc của thi sĩ.

   Tuy cảm hứng chủ đạo bài thơ là lãng mạn nhưng thi sĩ cũng không vì quá thăng hoa mà thoát li hiện thực cuộc sống. Nhà thơ không ngại trình bày hoàn cảnh bản thân cũng như bao văn sĩ khác dưới hạ giới:

    “Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó

    ...Biết làm có được mà dám theo”.

   Thi sĩ đang sống trong hoàn cảnh “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”, lối so sánh văn chương với bèo cho thấy giá trị thơ ca không có chỗ đứng, số phận của ông cũng như bao nhà văn nhà thơ khác lúc bấy giờ: một thước đất cắm dùi không có, kiếm được đồng lãi rất khó vì giấy người, mực người, thuê người in, làm quanh năm cũng chẳng đủ ăn, tuổi già sức yếu, học ngày một kém cuộc sống bấp bênh biết bao nhiêu. Nhà thơ vốn là con người tài năng trong lĩnh vực văn chương nhưng cả cuộc đời ông phải sống trong cảnh nghèo, quẩn quanh lo cơm áo gạo tiền mà vẫn không xong: “Hôm qua chửa có tiền nhà/ Suốt đêm thơ chẳng nghĩ ra câu nào”. Chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã đối xử bất công với những cây bút tài hoa như Tản Đà và giới văn nghệ sĩ, người ta chạy theo lối Tây tàu nhố nhăng mà quên mất giá trị văn học dân tộc.

   Lời Trời rằng không phải Tản Đà bị đày xuống hạ giới mà do Trời sai xuống “Là việc thiên lương của nhân loại” cùng với lời động viên: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết” đã củng cố niềm tin, cho thêm hi vọng vào cuộc đời. Qua đó cho ta thấy thi sĩ có cái nhìn tích cực vào cuộc sống của những con người chân chính, lương thiện. Nếu giọng thơ trước đó rất vui tươi, hào hứng khi khẳng định cái tôi cá nhân thì đến đây ta thấy sự bùi ngùi, xót thương và cũng buồn biết bao nhiêu khi tiếng gà gáy xao xác, người dậy cũng là lúc thi nhân trở về với cõi trần thực tại trong nuối tiếc:

    “Một năm ba trăm sáu mươi đêm

    Sao được mỗi đêm lên hầu trời”.

   Tác phẩm đã khép lại với sự thành công khi thể hiện cái tôi cá nhân đầy dấu ấn, táo bạo, mãnh liệt. Thi sĩ mượn lời của trời để thể hiện tài năng bản thân với cảm xúc được bộc lộ rất thoải mái, tự do khi lựa chọn thể thơ thất ngôn trường thiên. Ngôn ngữ gần gũi đời thường ít ước lệ quy phạm mà giàu sức gợi hình gợi cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn, giọng kể bình dân, khôi hài, hóm hỉnh mà có duyên đưa người đọc vào câu chuyện rất tự nhiên, lôi cuốn.

   Bài thơ “Hầu trời” đã thể hiện được phong cách thơ rất “ngông” của Tản Đà nhưng vẫn mang tâm hồn lãng mạn đúng với nhận xét của Xuân Diệu “Chủ nghĩa lãng mạn với cá thể đã bật nứt ra trong văn học Việt Nam những năm đầu của thế kỉ XX bằng Tản Đà_Nguyễn Khắc Hiếu”. Tác phẩm đã để lại cho ta nhiều ấn tượng về phẩm chất và tài năng của một con người được coi là dấu gạch nối giữa hai thế kỉ.

Bài văn mẫu 2

    Tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. Chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà. Hầu trời có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của Tàn Đà.

    Cách Tản Đà mở đầu tác phẩm của mình hết sức đặc biệt:

    Đêm qua chẳng biết có hay không,

    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

    Thật được lên tiên sướng lạ lùng.

    Câu thơ đầu tiên là nỗi băn khoăn hết sức chân thật, liệu đêm qua có là thực, hay chỉ là hư. Hỏi đấy rồi để câu thơ 2,3,4 ông đã tự trả lời cho chính những băn khoăn ấy: Tản Đà khẳng định giấc mơ đêm qua bằng cách phủ định liên tiếp, từ “thật” được lặp lại bốn lần: thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc mà đêm qua chính ông đã được trải nghiệm, đó là nỗi “sướng lạ lùng”. Đây chính là cách Tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.

    Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, Tản Đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiên xuống đón ông lên trời. Chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó lòng có thể tin được nhưng bằng cách giải thích dí dóm, hải hước, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân: “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga/ Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

    Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:

    Đọc hết văn vần sang văn xuôi

    Hết văn thuyết lí lại văn chơi

    Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại. Trước tài năng của Tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: Trời “lấy làm hay” “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn:

    - “Anh ghánh lên đây bán chợ Trời”

    Những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà:

    Nhời văn chuốt đẹp như sao băng

    Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

    Êm như gió thoảng, tinh như sương

    Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.

    Hàng loạt hình ảnh so sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề tôi, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.

    Đoạn thơ đã cho người đọc phần nào thấy được con người của Tản Đà, ông là một người tự tin, kiêu hãnh với tài năng của bản thân, ông ý thức được giá trị của chính mình. Nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông với cuộc đời. Ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Đây đồng thời cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.

    Sau khi đem tài năng thể hiện cho mọi người, Tản Đà đồng thời cũng đem những tâm sự rất thực chia sẻ với Trời cùng các chư tiên: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó/ Trần gian thước đất cũng không có”. Cái ông có chỉ là “một bụng văn” nhưng lại bị o ép nhiều chiều: thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của nhưng văn chương hạ giới lại rẻ mạt, “Kiếm được đồng lãi thực rất khó” “Làm ăn quanh năm chẳng đủ tiêu”. Câu thơ đậm cảm xúc ngậm ngùi, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm bút. Để rồi sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này lại cho thấy cái “ngông” trong con người Tản Đàm tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thân đồng thời ông cũng có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.

    Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng, giọng điệu tự nhiên Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi của bản thân. Đó là cái tôi : ngông ngạo, phóng túng, tự ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.

Bài văn mẫu 3

    Khi chốn nước non này còn lặng lẽ vào những năm đầu thế kỉ XX, người ta bỗng thấy một nhà thơ đã làm xao động cả giới văn đàn. Ông được gọi là người “nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, “gạch nối giữa hai thế kỉ”, người đặt nền móng đầu tiên cho thơ mới. Ông chính là Tản Đà. Điều ông mang tới là một hồn thơ lãng mạn, bay bổng mà vẫn đầy cảm thương, phong cách tài hoa, độc đáo mà vẫn giữ được cốt cách thơ ca dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho cái tôi trong thơ ấy là Hầu Trời. Thi phẩm được in trong tập Còn chơi xuất bản vào năm 1921 đã tạo nên ấn tượng đặc biệt và khẳng định tài năng của nhà thơ.

    Được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên khá phóng khoáng, tự do, lại thêm cách thể hiện đậm chất tự sự với các yếu tố cốt truyện, tình huống, nhân vật, lời kể… đã tạo nên một cấu tứ rất đặc biệt của tác phẩm này. Đó là một câu chuyện “hầu Trời” của nhân vật chính là tác giả - một thi sĩ, hoàn toàn hư cấu, tưởng tượng, nhưng lại được kể với một giọng điệu say mê, tự nhiên và rất bình dị. Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực, câu chuyện ấy có thể tóm tắt lại qua ba sự việc theo trật tự thời gian: trình bày lí do được lên Trời đọc thơ, cảnh đọc thơ hào hứng của tác giả và thái độ ngợi ca, tán thưởng của Trời và các chư tiên, và cuộc chia tay đầy lưu luyến, xúc động.

    Chắc hẳn nhiều người vẫn còn quá ấn tượng với cách mở đầu câu chuyện này của thi sĩ Tản Đà:

    Đêm qua chẳng biết có hay không,

    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

    Thật được lên tiên – sướng lạ lùng,

    Đây chỉ là một lời thông báo về sự việc “được lên tiên – sướng lạ lùng” vào đêm qua mà nhiều người chúng ta nghĩ là chuyện bịa. Nhưng cách dẫn dắt của thi nhân khiến người ta tin đó là thật, mà thật một cách đầy tự nhiên, chứ không hề gượng gạo. Ông cũng đặt ra nghi vấn chẳng biết có hay không theo kiểu khoa học nhưng vẫn khẳng định rằng: không hoảng hốt, không mơ mòng và có đến bốn cái thật khiến người ta tin. Cách mở đầu câu chuyện vì thế mà đầy khéo léo và duyên dáng, đến nỗi nhà thơ Xuân Diệu cũng trầm trồ, thán phục. Tình huống độc đáo, hấp dẫn của câu chuyện được mở ra.

    Ngay sau đó, thi sĩ trình bày lý do được lên tiên cũng đầy lạ lùng. Trong đêm khuya trăng sáng, lúc canh ba, nằm buồn một mình, tác giả ngồi dậy đun nước uống rồi ngâm nga văn thơ. Bỗng thấy hai cô tiên xuống, vì tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà khiến Trời không ngủ được nên Trời mời lên đọc để nghe qua. Đúng là có vẻ khó tin nhưng cách giải thích đầy hóm hỉnh và tự nhiên như thế khiến người đọc thấy được sự thú vị, đời thường và cũng đáng tin. Câu chuyện vì thế càng gợi thêm sự tò mò, hấp dẫn. Vậy đối diện với Trời, thi sĩ sẽ thể hiện mình như thế nào?

    Được đón tiếp nồng nhiệt, trang trọng, ngồi ghế bành như tuyết vân như mây, uống chè trời nhấp giọng, thi nhân bước vào một cuộc thể hiện tài năng, mà khán giả không ai khác là Trời và các chư tiên. Chỉ nghĩ đến đây thôi đã thấy quả là một câu chuyện hư cấu đầy thú vị, độc đáo chưa từng có. Việc lên tiên, lên trời không phải là một đề tài xa lạ, ngay cả với bản thân thi sĩ Tản Đà, nhưng việc lên đó để ngâm văn, đọc thơ thì chắc chắn là chỉ có ông mà thôi. Bởi vậy với bút pháp lãng mạn, nhà thơ đã tái hiện lại cảnh đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe đầy hứng khởi, tự hào:

    - Đọc hết văn vần sang văn xuôi

    Hết văn thuyết lí lại văn chơi

    - “Bẩm con không dám man cửa Trời…

    Chửa biết con in ra mấy mươi?”

    Đáng chý ý nhất ở đoạn này không phải là “gia tài văn chương” nhiều, đa dạng mà thi nhân nhắc tới, càng không có ý phô diễn tài năng giày thay, lắm lối hay cố ý khoe cái hay, cái đẹp do mình tạo ra, mà đó là niềm say mê, tự hào, niềm phấn chấn, hào hứng đối với những sáng tác của mình. Sở dĩ có được điều đó là bởi vì dường như thi sĩ đã tìm thấy một đối tượng tri âm nghệ thuật quá đỗi đặc biệt như thế. Nghe thơ văn của người đời mà Trời, các chư tiên nào là nở dạ, lè lưỡi, chau đôi mày, lắng tay đứng, cùng vỗ tay, lại còn hưởng ứng trên mức yêu thích:

    Chư tiên ao ước tranh nhau dặn

    - “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

    Những lời tán thưởng của Trời càng khẳng định điều đó:

    Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

    Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

    Êm như gió thoảng, tinh như sương!

    Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

    Có thể nói khung cảnh tuy trên trời nhưng cũng không hề xa lạ, cung cách rất đời thường và ngay cái cách chư tiên gọi thi sĩ là “anh” cũng rất dễ thương. Có lẽ bởi vậy mà việc được hầu Trời đọc thơ văn là một cách để nhà thơ Tản Đà bộc lộ hết thảy sự sảng khoái của bản thân, cũng là cách tự đề cao, tự khẳng định mình trước xã hội rất tinh tế. Đồng thời cũng có cả nỗi niềm khao khát được tri âm, đồng cảm của cuộc đời. Qua đây thấy được một cái tôi đầy phóng khoáng, táo bạo, cái tôi ngông đầy tài hoa.

    Vậy là việc lên trời của thi nhân không đơn thuần là “trần thế em nay chán nửa rồi”, là để tự khẳng định tài năng, cá tính độc đáo của nhà thơ, mà đó còn là cái cớ để giãi bày tâm sự về chuyện nghề, chuyện đời. Trời nghe văn thơ xong, khen nức nở liền hỏi danh tính. Tản Đà thật đến độ cũng chẳng giấu giếm gì, tên tuổi, nghề nghiệp đều nói ra. Trời sai suy xét thì phát hiện có tên Nguyễn Khắc Hiếu, đày xuống hạ giới vì tội ngông, thực chất là sai xuống làm việc “thiên lương” của nhân loại. Vẫn biết bài thơ thể hiện rất rõ đặc trưng của hồn thơ Tản Đà, nhưng chắc hẳn đến đây nhiều người đọc nghĩ, có thể đến mức này thì quả là một cá tính quá ngông và táo bạo. Câu chuyện hầu Trời, đọc thơ đã vượt xa mức bộc lộ tài năng là vì thế. Mà ở đó, Tản Đà chia sẻ cái cá tính ngông hay cái khát vọng làm việc thiên lương cho đời. Có một thời ông đã từng ôm mộng cải cách xã hội bằng văn chương, nhưng không thành. Và có lẽ đây là lý do nhà thơ nhắc tới sứ mệnh này trong bài thơ. Và có nhiều lý do để cho thấy Tản Đà thực sự quá sức với mệnh trời ban. Bởi: - “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó”. Vào thời đại của mình, Tản Đà được biết đến là người đầu tiên đem “văn chương ra bán phố phường”. Nhưng sự đời ngặt nghèo không dễ dàng như người ta tưởng, gia tài là bụng văn nhưng tấc đất không có, nào giấy, nào mực, nào cửa hàng đều của người, giá lại rẻ, lãi ít mà tiêu nhiều, học hành thêm thì tuổi đã cao. Đừng nói việc thiên lương mà ngay cả cuộc sống rất bình thường với ông vô cùng chật vật. Hơn thế, đó là tình cảnh chung của giới văn nghệ sĩ những thập kỉ đầu thế kỉ XX. Lên được đến trời là cơ hội để ông giãi bày sự tình ấy. Với bút pháp hiện thực, nhà thơ đã trải lòng mình như mong mỏi một niềm cảm thông, khát khao tìm kiếm được sự tri âm, sự khẳng định bản thân giữa cuộc đời.

    Bài thơ kết thúc bằng một niềm tiếc nuối, ngậm ngùi khi phải trở về với trần thế. Tiếng gà, tiếng người đã đánh thức nhà thơ. Không phải chỉ một năm mà có lẽ cả một đời thi sĩ luôn thèm khát được lên trời như thế. Nhưng ấn tượng của người đọc về những giây phút lên tiên hay chính là giây phút thăng hoa trong nghệ thuật của nhà thơ Tản Đà. Từ đó người đọc được chứng kiến một cái tôi cá nhân, cái tôi ngông phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời. Bởi vậy, dù là một câu chuyện chẳng có thật nhưng người ta luôn nhớ về Hầu Trời qua những nét rất đỗi gần gũi, giản dị, tự nhiên và đầy hóm hỉnh như thế.