Chuyên mục: Văn mẫu: Viết bài làm văn số 2: Nghị luận văn học

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ thời xưa qua các bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và Thương vợ và Trần Tế Xương

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

- Giới thiệu hình tượng người phụ nữ xưa đã đi vào thơ văn của rất nhiều tác giả trung đại …Trong đó nổi bật là hình tượng người phụ nữ trong thơ của hai tác giả: Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương

- Hai bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp và số phận của hình tượng người phụ nữ trong xã hội xưa

II. Thân bài

1. Nhưng người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu số phận vất vả, lênh đênh lận đận

   a. Số phận của một người vợ vất vả lam lũ nuôi chồng nuôi con (Thương vợ)

- Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”

⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phỉ nuôi còn mà phải nuôi chồng

- Sự vất vả, lam lũ được thể hiện trong sự bươn chải khi làm việc:

    +”Lặn lội thân cò”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

    + Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

- Năm nắng mười mưa: số từ phiếm chỉ số nhiều

⇒ Sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú

   b. Số phận của người phụ nữ với số phận lênh đênh không tự quyết định số phận mình( Bánh trôi nước)

- “Bảy nổi ba chìm” : Thành ngữ phản ánh cuộc đời lênh đênh, sóng gió của người phụ nữ trong xã hội phong kiến

- Số phận phải chịu một lần chìm nổi đã đủ lận đận, ở đây sử dụng “bảy”, “ba” càng làm tăng sự éo le trong số phận của những người phụ nữ

- “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”: Thể hiện rõ nét nhất việc không thể tự quyết định số phận mình của những người phụ nữ, số phận họ phải phụ thuộc vào những người đàn ông, vào lễ giáo phong kiến

⇒ Thân phận bị phụ thuộc, không có quyền tự quyết định số phận của mình

2. Tuy phải chịu số phận éo le nhưng ở họ toát lên những vẻ đẹp đáng quý, đáng trọng

   a. Vẻ đẹp về hình thức

   “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”: Vẻ đẹp hình thức đáng trân trọng

    + Hai vế tiểu đối (trắng-tròn) vẻ đẹp tạo hóa đáng trân trọng, vẻ đẹp duyên dáng

⇒ Làm nên cái nữ tính đáng yêu của người phụ nữ: vẻ đẹp đáng được nâng niu.

- Câu thơ ánh lên niềm tự hào muôn thửa của phái đẹp qua cách sử dụng cặp quan hệ từ: Vừa- vừa.

- Thân em: cách nói quen thuộc trong ca dao, đậm đà màu sắc dân gian.

   b. Vẻ đẹp về phẩm chất

   • Phẩm chất của một người vợ, người mẹ trong Thương vợ

- Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con :

    + “nuôi đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu

⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

    + “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vẫn

    + “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

⇒ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú

⇒ Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến

   • Phẩm chất thủy chung của người phụ nữ trong Bánh trôi nước

- “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”: Phẩm chất thủy chung son sắt

    + “Tấm lòng son”: Tấm lòng son sắt, thủy chung trước sau như một của người phụ nữ

    + “vẫn”: dù số phận ra sao vẫn luôn giữ tấm lòng trinh tiết

3. Nghệ thuật thể hiện thành công hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm

- Ngôn ngữ thơ bình dị

- Lấy ý tứ từ ca dao tục ngữ, vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian.

- Hình tượng nghệ thuật độc đáo.

- Việt hóa thơ Đường

III. Kết bài

- Khẳng định lại: Thông qua hai tác phẩm, những người phụ nữ trong xã hội xưa hiện với số phận dù lận đận những vẫn mang trong mình vẻ đẹp đáng quý

- Trình bày cảm nghĩ bản thân và liên hệ tới hình tượng người phụ nữ trong xã hội ngày nay

Bài văn mẫu 1

   Viết về người phụ nữ trong kho tàng văn học Việt Nam đặc biệt xuất hiện nhiều vào khoảng thế kỉ XVIII. Những tác phẩm là tiếng nói để khẳng định vẻ đẹp phẩm chất cũng như những nỗi truân chuyên bất hạnh trong cuộc đời họ. Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương, hơn ai hết là người thấu hiểu những nỗi cơ cực mà người phụ nữ phải gánh chịu, những điều đó đã được hai tác giả thể hiện xuất sắc qua hai tác phẩm Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương), Thương vợ (Trần Tế Xương).

    Dưới chế độ phong kiến phụ nữ luôn là đối tượng bị áp bức, đè nén, họ phải chịu cảnh Tam tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Cả cuộc đời người phụ nữ phải lệ thuộc vào người khác, họ không được quyết định số phận, hạnh phúc của đời mình. Mặc dùng phải chịu nhiều uất ức, bất công nhưng ở họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, của sự tảo tần chịu thương chịu khó.

    Hồ xuân Hương là một người phụ nữ gặp nhiều trắc trở trong chuyện tình duyên. Lấy chồng bà chỉ được làm lẽ, cô đơn, chăn đơn gối chiếc. Nhưng đồng thời bà cũng là một phụ nữ hết sức mạnh mẽ, dám lên tiếng khẳng định vẻ đẹp, giá trị của bản thân:

    Thân em vừa trắng lại vừa tròn;

    Mà em vẫn giữ tấm lòng son

    Người phụ nữ tự khẳng định vẻ đẹp của chính mình. Đó là vẻ đẹp ở hình thức bề ngoài: trắng, tròn. Hình ảnh một người con gái tràn đầy sức sống và hết sức phúc hậu. Đồng thời họ còn mang trong mình tấm lòng thủy chung, son sắt dù cuộc đời kia đối với họ có nhiều bất công, ngang trái.

    Trong tác phẩm Thương vợ, vẻ đẹp của người phụ nữ lại hiện lên ở sự tảo tần, chịu thương, chịu khó:

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng”.

    Câu thơ đã cho thấy khung cảnh buôn bán, làm ăn tần tảo của bà Tú để trang trải cho gia đình. Bà gánh vác không chỉ là con cái mà con là cả chồng. Tú Xương đã tự tách mình riêng ra một vế, cho thấy rõ sự tự ý thức về cái bất tài của bản thân, đồng thời ngợi ca, trân trọng sự hi sinh thầm lặng của bà Tú. Dù phải gánh vác cả gia đình nhưng bà Tú không có một lời oán trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công”. Lấy ông duyên thì ít mà nợ thì nhiều, ấy vậy mà bà chẳng hề kêu ca, oán thán, bà chấp nhận số phận của mình. Qua đó cho thấy đức hi sinh thầm lặng và cao cả của bà Tú đối với gia đình.

    Mặc dù mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ, xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc, nhưng cuộc đời người phụ nữ lại gặp phải rất nhiều bất hạnh, ngang trái. Đó là người phụ nữ không thể tự quyết định số phận của mình:

    “Bảy nổi ba chìm với nước non

    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”

    Cuộc đời họ, nổi nênh, vô định, họ đi đâu về đâu họ không thể biết, chữ “mặc dầu” thể hiện thái độ buông xuôi, đó cũng là lời than não nùng cho số phận nổi trôi. Không chỉ vậy, họ còn đau khổ trong cô đơn lạnh lẽo trong cảnh “kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” của kiếp lấy chồng chung. Có lẽ hơn ai hết, Hồ Xuân Hương là người thấu hiểu nhất của cảnh lấy chồng chồng, bởi vậy mà đã từng có lần mà cất tiếng chửi thật đanh thép mà cũng đầy đau đớn: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”.

    Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương lại đậm tô vào sự vất vả, cực nhọc của người phụ nữ khi phải gánh vác công việc gia đình, khi phải làm trụ cột trong nhà:

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng

    Lặn lội thân cò khi quãng vắng

    Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

    Không gian buôn bán của bà Tú thật chật trội và nguy hiểm đó “mom sông” phần đất nhô ra ở bờ sông, gợi lên tư thế chênh vênh, có thể ngã nhào bất cứ lúc nào. Đêm hôm phải lặn lội nơi “quãng vắng”, hoặc phải chen chúc trong những “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm, đó là nơi người ta chen nhau, tranh cướp, giành giật nhau. Câu thơ đã tái hiện cuộc sống đầy gian truân, vất vả của bà Tú, đồng thời cũng khẳng định phẩm chất đẹp đẽ của bà: tảo tần, tháo vát để trang trải cuộc sống gia đình.

    Qua những bài thơ trên, người đọc cảm thể cảm nhận đầy đủ, sâu sắc nhất những vẻ đẹp phẩm chất, cũng như nỗi bất hạnh trong cuộc đời họ. Từ đó càng trân trọng, cảm thông sâu sắc cho thân phận người phụ nữ xưa. Ngày nay, người phụ nữ đã được sống trong một xã hội bình đẳng, được tôn trọng, nhưng những vẻ đẹp phẩm chất của họ thì còn trường tồn mãi cùng thời gian.

Bài văn mẫu 2

   Đề tài viết về người phụ nữ luôn là mảnh đất màu mỡ cho cho chủ nghĩa nhân đạo trong thơ ca trung đại phát triển. Nếu thơ Hồ Xuân Hương là “Tiếng nói tâm tình của người phụ nữ” thì sau bà có Tú Xương_nhà thơ trào phúng luôn dành tình cảm sâu đậm cho người vợ của mình. Tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong thơ của hai thi sĩ là bài “Bánh trôi nước” và “Thương vợ”, qua đó người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người mang trong mình vẻ đẹp về nhan sắc, phẩm hạnh nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, đáng thương.

   Mỗi một nhà thơ có một cách thể hiện tình cảm của mình đối với người phụ nữ nhưng nhìn chung trong hai bài thơ “Bánh trôi nước” và “Thương vợ” hình ảnh người họ hiện lên có những nét tương đồng là thân phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

   Trước tiên họ là những con người có nhan sắc-vẻ đẹp bên ngoài. Điều đó được thể hiện rõ nét trong bài “Bánh trôi nước”. Chiếc bánh trôi nước được làm từ bột gạo nếp tinh khiết, trắng trẻo, mịn màng và tròn trịa rất dễ dàng cho người ta liên tưởng đến dung nhan xinh đẹp, hồn nhiên, đầy đặn của người con gái đang độ xuân thì. Vẻ đẹp ấy được bà so sánh trong câu thơ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Điều đó khiến cho ta nhớ tới vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao dân gian. Họ mang nét đẹp của “Tấm lụa đào”, “Cây quế giữa rừng”... tỏa hương thơm ngát với đời. Trong thơ Hồ Xuân Hương bà miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ rất tài tình tiêu biểu là bài “Thiếu nữ ngủ ngày” ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của cô gái trẻ tuổi với các chi tiết gợi hình gợi cảm:

    “Lược trúc chải dài trên mái tóc,

    Yếm đào trễ xuống dưới nương long

    Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm

    Một lạch đào nguyên suối chửa thông”

   Cách miêu tả chân thực không một chút bỡn cợt trái lại còn rất nâng niu, trân trọng khác xa với lối viết ước lệ tượng trưng mà không chú ý đến nhan sắc người phụ nữ của các tác gia trước bà. Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ Việt.

   Trong bài “Thương vợ” nhan sắc của bà Tú tuy không được Tú Xương nhắc đến nhưng mở rộng vốn văn học ta cũng phải ngẫm bà Tú ngoài phẩm hạnh tốt đẹp bên trong thì vẻ đẹp nhan sắc của bà cũng không kém ai nên mới có thể lấy được ông Tú-người học rộng và am hiểu bởi tiêu chuẩn chọn vợ trong xã hội thời xưa là con người hội tụ vẻ đẹp của “Công dung ngôn hạnh”.

   Không chỉ có vẻ đẹp về nhan sắc qua hai bài thơ người phụ nữ còn có mang trong mình nét đẹp về phẩm hạnh đáng quý luôn son sắt, chung thủy và chịu thương chịu khó, biết hi sinh vì chồng con. Trong bài “Bánh trôi nước” Hồ Xuân Hương ngợi ca “tấm lòng son”-giá trị nhân phẩm của người phụ nữ luôn vẹn nguyên trước mọi hoàn cảnh. Thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói táo bạo dám tự tin khẳng định giá trị của bản thân nói riêng và nhân phẩm người phụ nữ nói chung. Còn bà Tú được Tú Xương ca ngợi bởi tấm lòng nhân hậu của bà luôn cố gắng và hết lòng hi sinh cho gia đình. Bà Tú phải vất vả ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng cơm áo gạo tiền đổ lên đôi vai người phụ nữ, “một chồng” được đặt ngang hàng với “năm con” để cho thấy số tiền phải chi tiêu cho ông Tú bằng miệng ăn, áo mặc của năm đứa con cộng lại. Nuôi một ông chồng tài hoa như ông Tú không chỉ là lo miếng cơm manh áo mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi khi đi thi... Vậy mà bà Tú đã toan lo tất cả nhưng nào dám quản công, kể lể bà cho đó là duyên nợ “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công” là vậy. Bà sẵn sàng chấp nhận điều đó. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là tâm trạng chung, suy nghĩ chung của người phụ nữ xưa. Trong xã hội hiện đại ngày nay với cuộc sống văn minh, phát triển nhưng liệu còn có bao nhiêu người phụ nữ có thể làm được điều đó cho gia đình?

   Tuy hội tụ cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong nhưng hình ảnh người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người với số phận bé nhỏ, bất hạnh. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng cất lên tiếng khóc thương cảm, xót xa cho thân phận của họ. Không phải vô duyên vô cớ mà ông cất lên tiếng nấc thay lòng cho người phụ nữ trong “Văn chiêu hồn” với câu thơ:

    “Đau đớn thay phận đàn bà

    Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”

   Hay trong kiệt tác “Truyện Kiều” là lời than vãn:

    Đau đớn thay phận đàn bà

    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

   Trong xã hội phong kiến với những quan niệm, tư tưởng khắt khe về người phụ nữ như “Tam tòng tứ đức”, “Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” rồi “Nữ nhân ngoại tộc” vô tình đã trở thành sợi dây vô hình trói buộc con người vào lề thói cổ hủ lạc hậu khiến cho họ không có tiếng nói, không có quyền quyết định cho số phận cuộc đời mình. Trong bài “Bánh trôi nước” người phụ nữ là những chiếc bánh trôi để “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” để cho số phận long đong lận đận “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Chi tiết ấy khiến cho ta nhớ tới hình ảnh chiếc bách nổi lênh đênh tượng trưng cho số kiếp nổi nênh của người phụ nữ:

    “Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”

   Quan niệm phong kiến đã tước đoạt đi quyền làm người và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong cuộc đời, sự sống là sự tồn tại vô nghĩa chứ không được trọn vẹn đúng nghĩa với từ “Sống”.

   Trong bài “Thương vợ” đó là hình ảnh người phụ nữ của gia đình-bà Tú người đã khổ về gánh nặng vật chất miếng cơm manh áo cho bảy miệng ăn lại còn khổ về mặt tinh thần. Bà hết lòng vì chồng vì con nhưng chồng nào có thấu hiểu hay không? Ông Tú tự nhận mình là một người chồng vừa bất tài vô dụng không giúp được gì lại còn “hờ hững” thờ ơ trước nỗi khổ của vợ. Nỗi khổ ấy là “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, là “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông Tú đã nhập vai, hóa thân vào bà Tú để cảm thông, thấu hiểu và cất lên lời than vãn, tiếng chửi của bà một mặt thể hiện tình cảm của ông dành cho vợ, một mặt tự trào phúng bản thân mình.

   Hai bài thơ cùng một đề tài cùng làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ thời xưa với vẻ đẹp dung nhan bên ngoài và tâm hồn nhân cách bên trong nhưng toát lên là thân phận bé nhỏ, phụ thuộc rất đáng thương. Họ cũng là tấm gương tiêu biểu cho vẻ đẹp phẩm chất người phụ nữ Việt. “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, “Thương vợ” của Trần Tế Xương đã góp vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ-những con người gánh vác trọng trách duy trì sự sống, sự sinh tồn trên trái đất.