Đề bài: Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về đặc trưng truyền thuyết dân gian ( gồm cốt lõi lịch sử và yếu tố hư cấu, tập trung phản ánh vấn đề dựng nước và giữ nước)

- Giới thiệu về xuất sứ, khái quát nội dung truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy (Được rút từ truyện Rùa vàng trong tuyển tập Lĩnh Nam chích quái, kể về quá trình dựng nước và mất nước của An Dương Vương).

II. Thân bài

1. An Dương Vương xây thành, chế nỏ. đánh giặc.

- Tiếp nối sự nghiệp vua Hùng, An Dương Vương rời đô từ Phong Châu về vùng đồng bằng Phong Khê để ổn định và phát triển đất nước.

⇒ Rời đô, xây thành là một quyết định sáng suốt của vị minh quân

- Nhưng việc xây thành gặp nhiều khó khăn đắp tới đâu lở tới đấy. An Dương Vương đã lập đàn trai giới, đón tiếp cụ già ở phương xa, ra cửa Đông đón Rùa Vàng

⇒ An Dương Vương luôn trăn trở, suy nghĩ cho vận mệnh đất nước, biết trọng hiền tài.

- An Dương Vương cho xây thành cao rộng, hình xoắn ốc

⇒ Tài năng quân sự, có tầm nhìn xa.

- Khi Rùa thần từ biệt, nhà vua băn khoăn“Nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”

⇒ Ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác của nhà vua.

- Lấy vuốt rùa làm lẫy, nhờ Cao Lỗ chế nỏ đánh thắng mọi kẻ thù, giặc xâm lược. Hình ảnh chiếc nỏ thần mang nhiều ý nghĩa:

    + Là sức mạnh thần linh ban tặng cho nhà nước Âu Lạc.

    + Tượng trưng cho sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù.

    + Là biểu tượng của tinh thần đoàn kết và thể hiện trình độ sản xuất của nhân dân thời kì ấy.

→ Tiểu kết:

- Nội dụng:

    + An Dương Vương là một vị vua anh minh, sáng suốt, luôn suy nghĩ cho vận mệnh của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, biết trọng người tài, được sự đồng tâm, giúp đỡ của cả trời đất và nhân dân.

    + Thể hiện tiếng nói ca ngợi của nhân dân về An Dương Vương

    + Niềm tự hào về sự đoàn kết, lớn mạnh, những chiến công và trình độ phát triển của nhân dân thời kì lịch sử ấy.

- Nghệ thuật:

    + Các chi tiết hư cấu, tưởng tượng (Cụ già, Rùa vàng)

    + Kết hợp sự thật lịch sử và các chi tiết hư cấu.

2. Bài học mất nước gắn với những sai lầm của An Dương Vương và bi kịch tình yêu của Mị Châu - Trọng Thủy

a. Những sai lầm của An Dương Vương.

    + Lơ là, mất cảnh giác: An Dương Vương đã gả con gái cho con trai kẻ thù và đồng ý cho Trọng Thủy ở rể.

    + Chủ quan, khinh địch, ỷ vào sức mạnh của thành trì, vũ khí: Quân Triệu đà sang xâm lược nhà vua vẫn ung dung đánh cờ.

    + Hành động của An Dương Vương ở cuối truyện tuốt gươm đâm chết Mị Châu quyết liệt, dứt khoát, thể hiện sự thức tỉnh muộn màng, hi sinh tình cha con vì trách nhiệm với đất nước.

    + Hình ảnh kì ảo An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc rẽ một đường xuống biển thể hiện sự bất tử của nhà vua và sự trân trọng của nhân dân với nhà vua.

b. Bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thủy

    • Nhân vật Mị Châu:

    + Mị Châu hết lòng yêu thương và tin tưởng chồng: Đưa Trọng Thủy đi thăm thú Âu lạc, cho chồng xem nỏ thần và dạy cách sử dụng, rắc lông ngỗng chỉ đường để Trọng Thủy đi tìm.

    + Mị Châu nhẹ dạ cả tin mù quáng, bị Trọng Thủy lừa dối cướp nỏ thần chạy về nước, trước những lời nói kì lạ của Trọng Thủy không mảy may nghi ngờ.

    + Lời nguyền trước lúc chết của Mị Châu là lời thức tỉnh cũng là lời thanh minh cho tấm lòng nàng.

    + Cái chết của Mị Châu là sự trừng phạt nghiêm khắc của nhân dân đối với những sai lầm nghiêm trọng của nàng.

    + Chi tiết “Mị Châu chết ở bờ biển máu chảy xuống nước, sò ăn phải đều hóa thành hạt châu” cho thấy cái nhìn cảm thông nhân hậu của nhân dân ta, vì xét cho cùng Mị Châu cũng là một nạn nhân.

    • Nhân vật Trọng Thủy:

    + Là tên gián điệp nguy hiểm, trực tiếp gây ra bi kịch của hai cha con An Dương Vương: Lợi dụng tình yêu và sự ngây thơ của Mị Châu để lừa dối, ăn cắp nỏ thần, dụ Mị Châu rắc lông ngỗng dẫn đường.

    + Đau lòng, xót thương vợ, hối hận muộn màng. Trọng Thủy cũng là nạn nhân của của chiến tranh xâm lược phi nghĩa: Sau khi Mị Châu chết, ôm xác vợ khóc lóc, thương nhớ, lao đầu xuống giếng tự tử.

    + Chi tiết ngọc trai – giếng nước mang ý nghĩa hóa giải sự hận thù, thể hiện tấm lòng bao dung của nhân dân đối với những lội lầm đáng tiếc của hai nhân vật.

c. Bài học cho bi kịch mất nước:

    + Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu kẻ thù.

    + Luôn củng cố sức mạnh của dân tộc, không ỷ vào thành cao hào sâu vũ khí sắc bén mà chủ quan, khinh địch, lơ là cảnh giác.

    + Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa gia đình với quốc gia, dân tộc, cá nhân với tập thể.

→ Tiểu kết:

- Nội dung:+ Giải thích nguyên nhân mất nước của nước Âu Lạc cùng những bài học quý giá

    + Thể hiện thái độ bao dung của nhân dân đối với những tội nhân cũng là nạn nhân của chiến tranh.

- Nghệ thuật: + Sự kết hợp cốt lõi lịch sử và yếu tố kì ảo.

    + Các chi tiết kì ảo, giàu ý nghĩa (Rùa Vàng hiện lên, hình ảnh An Dương Vương xuống biển, ngọc trai giếng nước)

III. Kết bài

- Khát quát lại nội dung và nghệ thuật của truyện

- Mở rộng: Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy mang đặc trưng tiêu biểu của thể loại truyện truyền thuyết. Ngoài ra còn có những truyền thuyết phản ánh quá trình dựng nước giữ nước khác như: Thánh Gióng, Sơn Tinh Thủy tinh,...

Bài văn mẫu 1

    Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những truyền thuyết nổi bật trong chuỗi truyền thuyết thời Âu Lạc. Tác phẩm với kết thúc bi kịch, nước mất nhà tan đã trở thành bài học sâu sắc về quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.

    Tác phẩm xoay quanh ba nhân vật chính: An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy, mỗi nhân vật có một tính cách, hoàn cảnh riêng, qua đó thể hiện được những bi kịch khác nhau.

    Trước hết về nhân vật An Dương Vương. Ông là một vị vua anh minh, sáng suốt trong quá trình dựng và giữ nước. Ông có quyết định táo bạo, đúng đắn dời kinh đô từ Nghĩa Lĩnh về Cổ Loa, tạo điều kiện để phát triển đất nước. Không chỉ vậy, để đề phòng quân xâm lược ông còn xây dựng Cổ Loa thành với chín vòng thành chắc chắn, được sự giúp đỡ của Rùa Vàng, chín vòng thành khiến kẻ thù khó có thể xâm lấn. Không chỉ vậy, khi được Rùa Vàng tặng móng vuốt, ông còn tìm người tài chế tạo nỏ thần. Chính bởi sự mưu lược, nhìn xa trông rộng nên khi Triệu Đà kéo quân sang đã bị quân ta đánh bại. Nhưng ngài cũng là người mất cảnh giác trước kẻ thù.

    Trên đà lợi thế với chín vòng thành và vũ khí là nỏ thần, An Dương Vương không phòng bị trước kế sách hiểm độc của Triệu Đà: cầu hôn Mị Châu. Ông chẳng mảy may nghi ngờ mà lập tức gả con gái cho kẻ thù, không có chính sách phòng bị hay đối phó. Ông đã tỏ ra cực kì mất cảnh giác, có lẽ ông đã ngủ quên trên chiến thắng, ỉ thế mình có nỏ thần mà quên đi những âm mưu thâm độc của kẻ thù. Sự mất cảnh giác, chủ quan ấy còn được đẩy lên một mức cao hơn nữa khi quân lính vào báo tin Triệu Đà kéo quân sang xâm lược, An Dương Vương Vẫn bình tĩnh mà nói: “Đà không sợ nỏ thần của trẫm sao”. Ông vẫn tin tưởng vào sức mạnh của nỏ thần mà không hề có bất kì hành động nào chống trả lại kẻ xâm lược. Trước đây ông anh minh, sáng suốt bao nhiêu thì nay lại chủ quan bấy nhiêu. Chính bởi sự mất cảnh giác ấy nên ông lâm vào hai bi kịch lớn: bi kịch mất nước, thua trận, bị kẻ thù truy đuổi đến đường cùng phải kêu cứu Rùa Vàng. Và đau đớn hơn là bi kịch phải tự tay giết chết người con gái duy nhất của mình. Mặc dù đau đớn song ông không thể làm khác. Ông cầm sừng tê rẽ xuống nước sống cuộc đời bất tử. Đây là hình thức phổ biến trong văn học dân gian, cái chết của An Dương Vương được bất tử hóa, mĩ lệ hóa. An Dương Vương tuy có tội nhưng là vô tình nên được nối dài sự sống như một sự đền bù. Nhưng vẫn là tội nên không được tiếp tục sống trên trần gian, cũng không có cái kết huy hoàng như Thánh Gióng.

    Nhân vật thứ hai chính là nàng Mị Châu, nàng là tội nhân của bi kịch mất nước. Lấy Trọng Thủy nàng một lòng một dạ yêu và tin chồng, không hề đề phòng bởi cha nàng vốn cũng không phòng bị nên nàng cũng không mảy may nghi ngờ. Trước lời đề nghị của Trọng Thủy cho xem nỏ thần, nàng ngay lập tức nhận lời, không cần đến sự đồng ý của ai, dù đó là bảo vật quốc gia, liên quan đến vận mệnh đất nước. Đây cũng chính là cơ hội để Trọng Thủy đánh tráo nỏ thần. Sự bất cẩn của nàng đã làm lộ bí mất quốc gia, là nguyên nhân dẫn đến mất nước. Nàng ngây thơ đến nỗi trước lời dặn dò đầy ẩn ý của Trọng Thủy cũng không nghi ngờ mà còn dặn dò chồng: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khốn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà tắc ở ngã ba đường làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”. Mị Châu chỉ nghĩ cho hạnh phúc nhỏ của mình mà quên đi vận mệnh lớn của đất nước. Lúc này lí trí của nàng đã bị trái tim chiếm chỗ bởi vậy nàng không suy xét, ngẫm nghĩ mà chỉ nghe theo lời chồng. Nhờ những chiếc lông ngỗng mà quân Triệu Đà đã đuổi theo truy sát An Dương Vương, cuối cùng nàng bị kết tội là giặc – bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. Cái chết của Mị Châu là bài học đau xót cho muôn đời sau.

    Trọng Thủy là nhân vật vô cùng phức tạp, mắc kẹt giữa hai tham vọng tình yêu và cướp nước, bởi vậy Trọng Thủy vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân. Trọng Thủy cưới Mị Châu do lệnh của vua cha, chàng không hề có tình yêu với Mị Châu. Bởi vậy, Trọng Thủy sẵn sàng lừa dối Mị Châu để xem và đánh tráo nỏ thần, độc ác hơn Trọng Thủy còn lừa Mị Châu rải lông ngỗng để truy sát hai cha con An Dương Vương đến cùng. Mọi hành động của Trọng Thủy là có chủ ý, được sắp đặt từ trước, bởi vậy, Trọng Thủy không thể được dung tha. Cái chết bi thảm lao đầu xuống giếng tự vẫn chính là dành cho Trọng Thủy – kẻ nham hiểm, lừa dối người vợ của mình. Nhưng xét ở một khía cạnh khác, Trọng Thủy lại là nạn nhân trong bi kịch tình yêu. Đối với Triệu Đà, Trọng Thủy là một bề tôi trung thành đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ. Nhưng cuối cùng lại tự vẫn, theo quan niệm phong kiến tội bất hiếu là tội lớn nhất của con người. Khi sống trọn vẹn với tình yêu Trọng Thủy lại trở thành kẻ bất hiếu. Trong quan hệ với Mị Châu, có lẽ sau quá trình chung sống, Trọng Thủy nảy sinh tình cảm với Mị Châu, lúc này Trọng Thủy bị giằng xé giữa nghĩa vụ và tình yêu. Bởi vậy sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ, cướp nước thành công, Trọng Thủy sống trong nỗi đau đớn, tâm can bị giày vò, Trọng Thủy đã tìm đến cái chết để tự giải thoát cho chính mình. Bi kịch đó là lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa: không chỉ phía thua mà cả phía thắng cũng đau đớn như nhau.

    Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cốt lõi lịch sử và các yếu tố kì ảo, hoang đường tạo nên sự hấp dẫn, li kì; đồng thời thể hiện thái độ, quan niệm, tình cảm của dân gian với các nhân vật lịch sử. Xây dựng các hình tượng nhân vật rất phức tạp. Đây là hiện tượng đặc biệt trong các câu chuyện dân gian của Việt Nam. Ngoài ra tác phẩm sử dụng các chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng: ngọc trai, giếng nước,..

    Bằng sự kết hợp hài hòa giữa sự thật lịch sử và yếu tố kì ảo, tác phẩm là một cách giải thích nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Đồng thời, qua tác phẩm cũng gửi gắm bài học lịch sử sâu sắc cho các thế hệ muôn đời: bài học về tinh thần cảnh giác và bài học về cách xử lí đúng đắn giữa việc chung và việc riêng, giữa tình nhà và việc nước, giữa cá nhân và cộng đồng.

Bài văn mẫu 2

    Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là một truyền thuyết đặc sắc về chủ đề giữ nước của dân tộc ta. Nội dung kể về cha con An Dương Vương vì chủ quan, nhẹ dạ cả tin nên đã bị cha con Triệu Đà, Trọng Thuỷ lấy cắp lẫy thần, dẫn đến cảnh nhà tan, nước mất.

    Thông qua thất bại đau đớn của An Dương Vương, sự tan vỡ của tình cha con và kết cục bi thảm của đôi lứa Mị Châu - Trọng Thuỷ, nhân dân ta đã biểu lộ tư tưởng phản kháng chiến tranh xậm lược và rút ra bài học giữ nước sâu sắc: không nên chủ quan, tự mãn, ỷ lại vào vũ khí, phải luôn sáng suốt phân biệt rõ bạn thù, mài sắc cảnh giác trước mọi âm mưu thâm độc của kẻ địch.

    Truyện có thể chia làm hai phần. Phần một (từ đầu đến... không dám đốc chiến bèn xin hoà): An Dương vương xây thành, chế nỏ giữ nước. Phần còn lại: Bi kịch tình yêu của Mị Châu - Trọng Thuỷ gắn liền với thất bại của nước Âu Lạc. Cả hai phần của truyện đều thể hiện rõ nhận thức và thái độ của nhân dân đối với vai trò và trách nhiệm của cha con An Dương Vương trước lịch sử.

    An Dương Vương kế tục sự nghiệp dựng nước của mười tám đời Hùng Vương. Thời ấy, Văn Lang đã cố bờ cõi và nền văn hiến riêng. Vì vậy, việc chống giặc giữ nước là vấn để sống còn của dân tộc. An Dương vương đã tiến hành dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu (Phú Thọ) vể vùng đổng bằng Phong Khê (Đông Anh, Hà Nội ngày nay) để phát triển sản xuất và mò rộng lưu thông rồi bắt tay ngay vào việc xây thành. Đó là quyết sách đúng đắn chứng tỏ trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương.

    Việc xây thành bằng đất gặp nhiều khó khăn. Chuyện kể rằng thành cứ đắp ban ngày thì ban đêm lại đổ, xây mãi không xong. Người xưa giải thích hiện tượng ấy là do sự phá hoại của ma quỷ. Lược bỏ yếu tố hoang đường, ta có thể thấy những khó khăn trong thực tế mà An Dương vương gặp phải khi tiến hành công việc xây thành. Đó là do ông chưa nắm được đặc điểm của đất đồng bằng, do kĩ thuật còn hạn chế và chưa biết dựa vào sức dân.

    Sau này, dược sứ Thanh Giang tức Rùa Vàng giúp đỡ, An Dương Vương xây thành chi trong vòng nửa tháng là xong. Hành động lập đàn trai giới, đón mời cụ già vào điện hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe lời Rùa Vàng diệt trừ yêu quái,... thể hiện thái độ trân trọng hiền tài của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự giúp đỡ của Rùa Vàng chứng tỏ việc xây Loa Thành của An Dương vứơng là hợp ý trời, hợp lòng người, cho nên được dân chủng ủng hộ.

    An Dương Vương trước hết là một nhà quân sự xuất sắc. Ông đã biết xây thành cao, đào hào sâu để bảo vệ kinh đô. An Dương Vương được Cao Lỗ hỗ trợ trong việc chế tạo ra cung nỏ để chống quân xâm lược. Sức mạnh của thứ vũ khí ấy đã được các tác giả dân gian kì diệu hoá, thần thánh hoá bằng hình tượng nỏ thần.

    Hình tượng then chốt của truyện là chiếc lẫy thần. Rùa Vàng giúp vua xây xong Loa Thành và cho nhà vua vũ khí để bảo vệ đất nước. Nỏ thắn tượng trưng cho sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, tượng trưng cho trí tuệ, sức mạnh và khát vọng chiến thắng ngoại xâm của tổ tiên ta thuở ấy.

    Chiếc nỏ thần có khả năng bắn một phát giết hàng vạn giặc vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng, vừa phản ánh trình độ chế tạo và sủ dụng vũ khí chiến đấu của người Âu Lạc. Quân ta đã chế tạo ra cung nỏ và đúc được mũi tôn bằng đồng. Vũ khí ấy tuy thô sơ nhưng không kém phần lợi hại trong các cuộc chiến đấu chống xâm lăng.

    Khi Triệu Đà kéo quân sang xâm lược, vì An Dương Vương có nỏ thần trong tay nên quân Triệu Đà thua to, không dám đối đầu, bèn xin hoà. Chiến thắng của An Dương vương chứng tỏ sức mạnh quân sự của nhá nước Âu Lạc lúc bấy giờ, đồng thời khẳng định ý chí, tình thần đoàn kết của nhân dân ta. Đây là bài học tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

    Sau chiến thắng, An Dương vương sinh ra chủ quan, quên rằng nguy cơ xâm lược của kẻ thù phương Bắc luôn luôn tồn tại.

    Chúng ta đau xót cho cha con An Dương vương vì sai lầm tai hại nên dẫn đến thảm hoạ mất nước. Nhà vua không phân tích được hành động cầu hoà rồi cầu hôn cho con trai của Triệu Đà thực chất là âm mưu thâm độc, chuẩn bị cho cuộc xâm lược tiếp theo. Thất bại của An Dương vương không phải chờ tới khi quân giặc tiến đến chân thành mới bộc lộ, mà bộc lộ ngay từ Khi nhà vua mất cảnh giác, đồng ý cho Trọng Thuỷ vào thành.

    Ông đã bằng lòng gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ, lại còn cho ở rể, việc đó có khác chi “Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”?! Đây là sự hoà hiếu thiếu cảnh giác, tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ thù phá từ trong phá ra. Mầm mống mất nước khởi nguồn từ đây.

    Sau chiến thắng, An Dương Vương không quan tâm đến việc củng cố lực lượng, không dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân để chống giặc mà lại ỷ vào vũ khí, vào sự hỗ trợ của thần linh, Những nhược điểm ấy khi kẻ thù nắm được tất dẫn đến thất bại không thể tránh khỏi.

    Nghe tin báo Triệu Đà lại cất quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương cậy có nỏ thần vẫn điểm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?". Thái độ chủ quan khinh địch đó đã dẫn An Dương Vương nhanh chóng đến thất bại thảm hại. Tới khi giặc đã tiến sát chân thành, An Dường Vương mới cẩm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy; Trong cơn cùng quẫn, An Dương Vương chi còn cách đem theo con gái lên ngựa, bỏ thành mà chạy về phương Nam.

    Cha con An Dương Vương đã cùng đường mà quân thù thì cứ theo dấu lông ngỗng của Mị Châu rắc dọc đường truy đuổi sát sau lưng. Quả là cha con An Dương Vương đã mất thế trời che, đất chở.

    Khi Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó thì An Dương Vương mới tỉnh ngộ. Đây là lời kết tội đanh thép của công lí, của nhân dân về hành động vô tình phản quốc của Mị châu. Nhà vua tự tay chém chết cô con gái yêu dấu, cũng là tự xử một cách nghiêm khắc, quyết liệt đối với sai lầm của bản thân. Nhưng tất cả đểu đã quá muộn màng. Câu chuyện kết thúc thật bi thảm!

    Hành động rút gươm chém Mị Châu thể hiện lập trường dứt khoát của An Dương Vương lá đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xử án, đổng thời thể hiện sự tĩnh ngộ muộn màng trước lỗi lầm nghiêm trọng của mình.

    Đây là cái giá mà ông phải trả cho sai lầm không thể sửa chữa, liên quan đến vận mệnh đất nước và dân tộc.

    Hai cha con An Đương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác nên đã trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp và đẩy Âu Lạc vhò thảm hoạ mất nước. Đó là bài học xương máu về thái độ mất cảnh giác dối với kẻ thù dành cho những người đứng đầu, chịu trách nhiệm về sự tồn vong của quốc gia.

    Hình ảnh An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, theo Rùa Vàng xuống thuỷ phủ là yếu tố kì ảo phản ánh thải độ và tìm cảm cuá nhân dân đối với ông. Nhân dân thương tiếc vị vua tài ba, ann dũng nên không muốn ông chết. Chi tiết lòng biển bao dung đón người anh hùng bất tử thể hiện sự ngưỡng mộ và thương tiếc của người xưa.

    Sai lầm của An Dương Vươrg là nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của Mị Châu. Mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ là mối tình éo le, nó không phải là sản phẩm của tình yêu tự nhiên mà là sân phẩm của một âm mưu thâm hiểm trong cuộc chiến tranh phi nghĩa.

    Mị Châu sai lầm ờ tình yêu mù quáng nên vô tình đã tự biến mình thành tòng phạm với giặc. Nàng ngây thơ chân thật đến mức nhạ dạ cả tin. Nàng dám giấu cha cho Trọng Thuỷ xem trộm nỏ thần mà quên rằng đó là con trai của kẻ thú. Từ đó, Mị Châu đã tiếp tay cho Trọng Thuỷ đánh cắp bí mật vũ khí lợi hại của quốc gia, dẫn tới thảm hoạ đất nước rơi vào tay giặc. Trên đường trốn chạy, nàng lại tiếp tục rắc lông ngỗng chĩ đường cho giặc truy đuổi vua cha. Hai hành động ấy của Mị Châu là trọng tội. Nhiều người cho rằng những hành động trên là vô tình nhưng xét cho cùng thì vl Mị Châu quá tin yêu Trọng Thuỷ nên đã mù quáng nghe theo lời chồng. Rùa Vàng gọi đích danh nàng là giặc quả không sai vì nàng đã gây ra hậu quả nghiêm trọng.

    Triệu Đà, chúa đất Nam Hải mang quân sang cướp đất Âu Lạc nhưng thất bại vì An Dương Vương cỏ nỏ thần. Biết dùng sức không được, hắn chuyển sang đùng kế. Triệụ Đà xin giảng hoà, sau đó cầu thân rồi cầu hôn cho con trai. (Ngày xưa, trong quan hệ bang giao, các quốc gia hay dùng con tin hoặc cầu hôn để giữ hoà hiếu).

    Đây là âm mưu hết sức thâm độc. Người giúp Triệu Đà phá nỏ thần và chiếm được Âu Lạc chính là Trọng Thuỷ. Trọng Thuỷ là nhân vật đáng thương nhưng cũng thật đáng ghét. Chàng chấp nhận làm công cụ thực hiện ý đồ xâm lược của cha. Tuy là con rể An Dương vương nhưng thực chất Trọng Thuỷ là tên gián điệp lợi hại cài vào đất Âu Lạc, Bằng mọi thủ đoạn xảo quyệt, Trọng Thuỷ đã lừa Mị Châu để đánh tráo lẫy thần, sau đó nói dối là về thăm cha để mang lẫy thần về nước. Triệu Đà có được lẫy thần, cả mừng liền cất binh sang đánh chiếm Âu Lạc một lần nữa.

    Trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng tin chổng thì Trọng Thuỷ lại lừa dối nàng và rắp tâm chiếm đoạt lẫy thần. Tuy vậy, những ngày ở Loa Thành, sống bên người vợ đẹp người, ngoan nết, Trọng Thuỷ đã nảy sinh tình yêu thật sự với Mị Châu. Mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thuỷ là tham vọng chiếm được Âu Lạc và tham vọng trọn tình với người đẹp cũng bắt đầu nảy sinh. Nhưng hai tham vọng đó không thể dung hoà. Vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ Trọng Thuỷ phải vui hưởng vinh quang thì chàng lại đau khổ đến mức tự tử vì ân hận và thương tiếc Mị Châu. Trọng Thuỷ tự tử vì hiểu ra rằng không thể giải quyết mâu thuẫn gay gắt trong con người mình. Cái chết của chàng đã gợi chút xót xa, tội nghiệp trong lòng mọi người.

    Mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ éo le là do luôn bị âm mưu xâm lược của Triệu Đà chi phối. Vì vậy, kết thúc bi thảm của mối tình đó thực sự mang ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa.

    Tình yêu Mị Châu - Trọng Thuỷ thắm thiết nhưng bi thầm. Nhân dân ta không ca ngợi, mà chỉ dành cho họ một niềm thương xót vì hạnh phúc lứa đôi của họ bị chiến tranh làm cho tan vỡ. Mối oan tình ấy đã được đển bù bằng hình ảnh ngọc trai, giếng nước. Đây là hình ảnh thể hiện thái độ phản kháng chiến tranh xâm lược, là tiếng nói nhân đạo và cũng là cách kết thúc có hậu của truyện cổ.

    Người Việt vốn trọng đạo lí và giàu lòng nhân ái nên mới giảm nhẹ tính bi thương của truyện bằng những hình ảnh có tính chất kì ảo: An Dương Vương được Rùa Vàng đưa xuống thuỷ cung ; lời khấn nguyện của Mị Châu ứng nghiêm máu nàng chảy xuống biển, một loài trai ăn phải hoá thành ngọc; ngọc Mị Châu đem rửa bằng nước giếng nơi Trọng Thuỷ trầm mình thì sẽ sáng ngời.

    Truyện An Dương Vương, Mị Châu - Trọng Thuỷ được nhiều thế hệ người Việt Nam yêu thích bởi giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật độc đáo của nó. Thông qua truyện, chúng ta có thể hình dung được phần nào về bi kịch mất nước của dân tộc ta thời kì Âu Lạc và càng thấm thía hơn bài học giữ nước mà tổ tiên ta đã đúc kết. Câu chuyện còn nhắc nhở chúng ta bài học về bạn và thù; mối quan hệ giữa nước và nhà... Những bài học lớn rút ra từ truyền thuyết này luôn luôn nóng hổi ý nghĩa giáo dục trong mọi hoàn cảnh và mọi thời đại.

Bài văn mẫu 3

    Hẳn là mỗi lần nhắc đến cái nỏ thần chúng ta đều nhớ đến câu chuyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy. Câu chuyện ấy như một câu chuyện lịch sử và cũng có những yếu tố hư cấu thể hiện được những buổi đầu dựng nước của ông cha ta. Không những thế ta còn thấy được tình nước, tình cha con tình vợ chồng sắt son bị cuộc chiến giữa các nước làm cho rơi vào bi kịch.

    Năm ấy vua An Dương Vương đánh giặc Triệu Đà thế nhưng quân trong thành không thể đánh lại chúng. Mấy ngày trước khi xảy ra trận chiến này có một ông già đã đến đây và nói với vua là sẽ phải cậy nhờ thần Kim Quy nói xong ông già lại đi. Vua An Dương Vương nửa tin nửa ngờ thì sáng hôm sau quân Triệu Đà kéo đến tấn công thành của nhà vua. Quân của An Dương Vương đã chống cự quyết liệt phần vì bị động phần vì chủ quan trước những lời dặn dò của ông già hôm trước. Vua An Dương Vương chạy chốn đến bờ biển. Trong cuộc chiến ấy thì quân của vua đã thua. Ở ngay trên bãi biển ấy làn nước dưới biển bỗng tẽ làm đôi và hiện lên thần rùa kim quy có lấy một cái vuốt vàng của mình cho nhà vua và dặn nhà vua về chế tác thành nỏ thần thì sẽ lấy lại được thành và không sợ bất cứ một quân xâm lược nào cả. Ở đây ta thấy được đời sống tâm linh của nhân dân người Việt. Thần Kim Quy đã mang đến sự giải cứu cho nhà vua. Không ở câu chuyện lịch sử này mà ngay cả đến thời vua Lê Lợi cũng thế. Nhà vua cũng được thần kim quy cho mượn thanh kiếm vàng để đánh tan quân giặc. Và chính vì thế vua An Dương Vương đã chiếm lại được thành và cứ mỗi lần có quân xâm lược thì vua lại đem nỏ thần ra bắn. Vậy nên không có bất cứ một tên giặc nào có thể lọt vào thành chiếm thành được.

    Cuộc sống tưởng chừng bình yên từ đấy nhưng lại không. Đó chỉ là sự khởi đầu tốt đẹp mà thôi. Triệu Đà như đoán được nhà vua có bảo bối gì cho nên hắn có nhiều quân tốt đến đâu cũng không thể nào đánh lại An Dương Vương. Thế rồi hắn bày trò cầu hòa để thám thính. Trọng Thủy con trai của hắn chính là người có nhiệm vụ tìm ra vũ khí bí mất ấy. Trọng Thủy được lấy con gái của An Dương Vương tên là Mị Châu. Tuy họ là người của hai bên vua cha đối đầu với nhau nhưng khi gặp gỡ và trở thành vợ chồng họ đã yêu thương nhau thật lòng. Về phần vua An Dương Vương lại không hề đề phòng gì trước sự cầu hòa của đối phương. Đó cũng chính là một sai lầm dẫn tới bi kịch. Thế rồi cô con gái của ông cũng ngây thơ mà không đề phòng gì người chồng của mình. Hai người sống hạnh phúc và cô đã đem cái chuyện bí mật về nỏ thần kia cho Trọng Thủy nghe. Vậy là bi kịch bắt đầu từ hành động dại dột ấy. Trong Thủy lén lấy chiếc nỏ thần và dặn người vợ của mình là khi nào đi nhớ làm dấu xong chuyện chàng sẽ đuổi theo nàng.

    Vậy là Triệu Đà sau khi đoạn được mục đích đã mang quần đến xâm chiếm thành. An Dương Vương vẫn không biết chuyện bèn sai người đi tìm nỏ thần ra nhưng khổ nỗi không thấy đâu cả. Ngay cả nhà vua vẫn không nghĩ rằng Trọng Thủy lấy. Vì thế cũng đành nghênh chiến đánh Triệu Đà. Quân vua không có nỏ thần yểm trợ thì tan tác thua trận. Vua An Dương Vương đã đưa Mị Châu lên ngựa và chạy ra phía biển để cầu cứu Long Hải. Trên đường đi nàng vẫn không hề hay biết Trọng Thủy lừa dối mình vẫn làm theo lời chàng dặn. Nàng dứt những chiếc lông ngỗng để làm dấu cho chàng chạy theo. Có thể nói Mị Châu là một cô gái hết sức ngây thơ không biết đến mưu hại người khác. Đồng thời ta cũng thấy được tình cảm mà hai người dành cho nhau là một tình cảm vợ chồng thật sự.

    Đến bên bờ biển, rùa thần hiện ra nói rằng chính người ngồi sau ngựa là kẻ đã làm nên những chuyện này. Người cha An Dương Vương không ngần ngại do dự gì mà rút kiếm chiếm đầu con gái mình ngay tức khắc. Sau đó cùng với rùa kim quy rẽ nước xuống long cung. Bi kịch ấy cho thấy người con gái ngây thơ kia đã làm mất nước của cha mình. Nhưng cũng thật đáng thương cho cô khi chết đi mà không hiểu tại sao mình bị chết. Một điều khiến cho chúng ta phải suy nghĩ về hành động của người cha. Vua An Dương Vương không phải là không thương con nhưng trước những lời nói của thần kim quy ông như tức giận trước người con gái của mình. Chính vì sự ngây thơ tin người của cô đã làm ông mất nước. Bi kịch tình cha con là như vậy đấy. Chỉ khổ cho người con gái nhu mì nết na kia chết một cách oan ức không biết mình đã làm nên tội tình gì. Cô gái thánh thiện ấy chỉ biết rằng mình nghe lời vua cha và có một tấm lòng vàng son với người chồng của mình mà thôi. Chết đi cô biến thành ngọc trai thể hiện sự ngây thơ trong trắng trong tâm hồn mình.

    Về phần trọng Thủy thì sau khi hoàn thành nhiệm vụ chàng đuổi theo nàng nhưng đó lại cũng là dấu hiệu để cho cha chàng đuổi theo để giết vua An Dương Vương. Khi đến nơi Trọng Thủy thấy xác của vợ mình đã vô cùng đau xót. Suy cho cùng Trọng Thủy cũng vì vâng lời cha mình chứ bản thân chàng không hề độc ác. Chàng yêu thương mị Châu thật lòng chứ không phải lừa dối. Chàng chỉ làm theo lời của cha mình mà thôi. Ở đây ta thấy sự trung hiếu của người con trai dành cho cha mình chứ bản thân chàng cũng không ý thức được việc làm của mình sẽ gây ra cái chết thương tâm của nhiều người như vậy. Và Trọng thủy mỗi lần tắm nhìn xuống giếng lại thấy hình bóng của Mị Châu dưới đó. Anh quá đau đớn vì thế cho nên anh quyết định nhảy xuống giếng ấy để tử tự.

    Câu chuyện kết thúc với một tấn bi kịch về mất nước, tình cha con, tình nghĩa vợ chồng. Họ đều nhận lấy một kết cục cho việc làm của mình. An Dương Vương vì không đề phòng mà thành ra như thế. Mị Châu quá đỗi ngây thơ tin người, Trọng Thủy vì tình nghĩa cha con không ý thức việc làm của mình. Tất cả những việc làm ấy đã dẫn đến bi kịch nhưng ta vẫn thấy được những vẻ đẹp của họ. An Dương Vương thẳng tay chém con thể hiện lòng yêu nước, Mị Châu yêu thương cha, yêu thương son sắt người chồng. Trong Thủy là một người con có hiếu và yêu thương vợ mình.

Bài văn mẫu 4

    Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là một truyền thuyết đặc biệt của nước ta nói về vấn đề chủ quyền của dân tộc. Tác phẩm để lại trong lòng người đọc rất nhiều những ấn tượng sâu sắc về tình cảm cha con tình cảm vợ chồng. Nội dung câu chuyện kể về cha con An Dương Vương vì cả tin vì chủ quan nên đã bị cha con Triệu Dà lợi dụng hãm hại dẫn đến cảnh nước mất nhà tan.

    Câu chuyện kể về thần Kim Quy là một con rùa thần sau khi giúp An Dương Vương xây dựng xong Loa Thành, trước khi ra về, thần Kim Quy còn tặng cho chiếc vuốt để làm lẫy nỏ thần. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà khi chúng sang xâm lược. Triệu Đà cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy, vua vô tình đồng ý. Trọng Thủy dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm đổi mất lẫy thần mang về phương Bắc. Sau đó, Triệu Đà phát binh đánh Âu Lạc. Không còn nỏ thần, An Dương Vương thua trận, cùng Mị Châu chạy về phương Nam. Thần Kim Quy hiện lên kết tội Mị Châu, vua chém chết con rồi đi xuống biển. Mị Châu chết, máu chảy xuống biển thành ngọc trai. Trọng Thủy mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch. Vì quá tiếc thương Mị Châu, Trọng Thủy lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc trai, rửa bằng nước giếng ấy thì ngọc trong sáng thêm.

    Đầu tiên nhân vật An Dương Vương trong truyện được thần linh giúp đỡ là do nhà vua sớm đề cao cảnh giác xây dựng loa thành xây thành đắp lũy cho rèn đúc vũ khí để chống giặc ngoại xâm. Ông đã cho dời đô từ Phú Thọ về vùng đồng bằng Đông Anh Hà Nội ngày nay. Điều đó chứng tỏ rằng ông là một ông vua rất thông minh sáng suốt thể hiện bản lĩnh vững vàng của nhà vua. Thế nhưng ông cứ xây thành thì ban ngày xây ban đêm lại đổ, nhân dân giải thích chuyện này là do ma quỷ quấy nhiễu. Thế nhưng thực tế là do ông chưa hiểu được thế đấy ở vùng đồng bằng này. Sau đó nhờ có thần Kim Quy giúp đỡ nên ông xây thành chỉ nửa tháng là xong. Hành động lập đàn trai giới, đón mời cụ già vào điện hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe lời Rùa Vàng diệt trừ yêu quái,... thể hiện thái độ trân trọng hiền tài của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.

    Sự giúp đỡ của Rùa Vàng chứng tỏ việc xây Loa Thành của An Dương vương là hợp ý trời, hợp lòng người, cho nên được dân chủng ủng hộ. Tưởng tượng ra sự giúp đỡ này nhân dân ta đã ca ngợi công lao của An Dương Vương trong việc dựng thần chế nỏ cũng như những chiến công trong việc đánh giặc của dân tộc ta. Có chiếc nỏ thần nên An Dương Vương đánh cho quân giặc xâm lược khiếp sợ. Sự thất bại của ông chính là lúc ông coi thường khinh suất kẻ địch khi nhà vua chấp nhận lời làm hòa của kẻ thù thậm chí còn nhận lời cầu hôn của Triệu Đà và còn để cho Trọng Thủy về ở rể. Ở đây sai lầm của ông là đã lơ mơ khinh thường về sự sảo quyệt của kẻ thù đẩy nước nhà đến cảnh nước mất nhà tan. Ông quá khinh địch tự cho mình có nỏ thần có thành quách kiên cố nên không sợ ai. Bên cạnh đó ông còn có tư tưởng muốn yên ổn không muốn chiến tranh có tâm lý muốn an nhàn. Chi tiết Rùa Vàng và hình ảnh ông chém đầu con gái là tưởng tượng của nhân dân ta thể hiện sự biết ơn của nhân dân ta về những chiến công mà ông đã đạt được và thể hiện sự kính trọng của tác giả về một con người kiên trực luôn luôn phục vụ đất nước nhân dân và sẵn sàng giết chết con gái mình khi bán nước. Điều đó cũng nhằm xoa dịu nỗi đau của nhân dân về chuyện mất nước.

    Câu chuyện có tính cao trào chính là do hình tượng nhân vật Mị Châu. Nhân vật này là con gái vua nhưng đã phạm phải những sai lầm ngiêm trọng. Đầu tiên sai lầm của Mị Châu là ở chỗ Mị Châu cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần và khi rút chạy nàng cũng không phân được đâu là thù đến khi chiến trận giữa hai nước xảy ra ở chỗ vẫn rắc lông ngỗng cho Trọng Thủy và quân lính đuổi theo. Trước tiên ta thấy rằng Mị Châu với thân phận là công chúa nhưng cũng không phân biệt đâu là bạn đâu là thù chỉ nghĩ đến tình cảm vợ chồng mà không suy nghĩ sâu sa đến cảnh đất nước. Chúng ta cũng cần trách An Dương Vương cũng là một người cha không dậy được con không dạy cho con biết đâu là thù đâu là bạn đẩy con gái đến bờ vực của một kẻ hại nước bán nước. Cuối cùng phần kết chuyện nhân vật Mị Châu bị cho chém chết hành động này là một sự trừng trị thích đáng với Mị Châu. Cuối cùng hình ảnh Mị Châu cũng được hóa thành ngọc trai mà không chết thể hiện tấm lòng nhân đạo và cũng rất bao dung của tác giả dân gian. Bên cạnh việc ta trách móc nhân vật Mị Nương ta cũng thấy rằng Mị Nương cũng là một người vợ mà đã là một người vợ thì phải theo chồng nghe theo ý kiến của chồng. Tuy vật ta bỏ qua những yếu tố ảnh hưởng đến những hành động sai lầm của nhân vật thì chính bản thân Mị Nương là người đáng trách nhất. Qua hình tượng nhân vật Mị Nương tác giả cũng muốn nhắn nhủ đến thế hệ trẻ trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa cái riêng với cái chung.

    Nhân vật Trọng Thủy chính là nhân vật cốt lõi gây ra tình cảnh mất nước của nước Âu Lạc. Trọng Thủy chính là một kẻ thù của nhân dân ta khi nghe theo lời cha để sai khiến vợ ăn trộm nỏ thần khiến chúng ta rơi vào cảnh nước mất nhà tan. Có thể nói hành động của Trọng Thủy là hành động xấu xa của một tên ăn cắp lợi dụng sơ hở của người khác. Bên cạnh đó hình ảnh ngọc trai giếng nước cũng là một hình ảnh khá đẹp kết thúc câu chuyện và cũng là kết thúc mối tình giữa hai người. Chính việc thêm vào truyện các chi tiết thần kì này đã giúp cho câu chuyện thêm hấp dẫn và sinh động. Tình yêu Mị Châu – Trọng Thủy thắm thiết nhưng bi thảm. Nhân dân ta không ca ngợi, mà chỉ dành cho họ một niềm thương xót vì hạnh phúc lứa đôi của họ bị chiến tranh làm cho tan vỡ. Mối oan tình ấy đã được đền bù bằng hình ảnh ngọc trai, giếng nước. Đây là hình ảnh thể hiện thái độ phản kháng chiến tranh xâm lược, là tiếng nói nhân đạo và cũng là cách kết thúc có hậu của truyện cổ. Nó cũng thể hiện một cái nhìn bao dung của nhân dân ta với các nhân vật lịch sử và với tất cả những gì đã xảy ra.

    Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, cho đến tận ngày nay vẫn chiếm được cảm tình của người đọc. Người ta đọc truyện để hiểu về lịch sử, để rút ra những bài học bổ ích cho mình và cho con cháu đời sau. Nhưng không chỉ thế, đọc truyền thuyết này, người ta còn muốn hiểu sâu sắc hơn bi kịch của một mối tình rất đẹp trong lịch sử.